Quân sự Thời_kỳ_Minh_Trị

Buổi tiếp kiến Phái đoàn quân sự Pháp thứ hai đến Nhật Bản của Thiên hoàng Minh Trị, 1872.

Tổng quan

Bị những người phản đối ngăn chặn, những nhà lãnh đạo thời Minh Trị tiếp tục hiện đại hóa quốc gia qua đường cáp điện tín được chính phủ tài trợ và xây dựng đường sắt, bến cảng, nhà máy vũ khí, hầm mỏ, xưởng dệt, nhà máy, và các cơ sở thí nghiệm nông nghiệp. Nhiều người lo ngại về an ninh quốc gia, các lãnh đạo có nhiều cố gắng quan trọng để hiện đai hóa quân đội, bao gồm thành lập một quân đội thường trực nhỏ, một hệ thống dự trữ lớn, và hệ thống nghĩa vụ quân sự bắt buộc cho nam giới. Hệ thống quân sự nước ngoài cũng được nghiên cứu, đặc biệt là của Pháp, được du nhập, và các học viên quân sự Nhật Bản được gửi đến châu Âu và Hoa Kỳ vào các trường Hải quân và Lục quân.

Đầu thời Minh Trị (1868-1877)

Năm 1854, sau khi Đô đốc Matthew C. Perry ép buộc ký kết Hiệp ước Kanagawa, giới tinh hoa Nhật Bản đã đảm nhận vị trí mà họ cần để hiện đại hóa năng lực quân sự của nhà nước, hoặc có nguy cơ bị ép buộc tiếp tục bởi các cường quốc phương Tây. [7] Mạc phủ Tokugawa đã không chính thức chia sẻ quan điểm này, bằng chứng là Thống đốc Nagasaki, Shanan Takushima bị tống giam vì đã nói lên quan điểm của mình về cải cách quân sự và hiện đại hóa vũ khí. [8]

Năm 1868, chính phủ Nhật Bản thành lập KKho vũ khí Tokyo. Kho vũ khí này chịu trách nhiệm phát triển và sản xuất vũ khí nhỏ và đạn dược liên quan. [8] Cùng năm đó, Ōmura Masujirō thành lập học viện quân sự đầu tiên của Nhật Bản ở Kyoto. Ōmura đề xuất thêm chỗ trú chân quân đội được lấp đầy bởi tất cả các tầng lớp nhân dân bao gồm cả nông dân và thương nhân. Lớp shōgun [cần giải thích], không hài lòng với quan điểm của Ōmura về sự bắt buộc, đã ám sát ông vào năm sau.[9]

Năm 1870, Nhật Bản mở rộng cơ sở sản xuất quân sự bằng cách mở một kho vũ khí khác ở Osaka. Kho vũ khí Osaka chịu trách nhiệm sản xuất súng máy và đạn dược. [10] Ngoài ra, bốn cơ sở thuốc súng cũng được mở tại đây. Năng lực sản xuất của Nhật Bản dần được mở rộng.

Năm 1872, Yamagata Aritomo và Saigō Jūdō, cả hai nguyên soái mới, đã thành lập Quân đoàn Cận vệ Hoàng gia. Quân đoàn này gồm các chiến binh từ các phiên Tosa, Satsuma, và Chōshū. [8] Ngoài ra, cùng năm đó, hyobusho (bộ chiến tranh) đã được thay thế bằng Bộ Chiến tranh và Bộ Hải quân. Tầng lớp samurai đã phải chịu sự thất vọng lớn trong những năm sau đó, khi vào tháng 1, Luật nghĩa vụ quân sự năm 1873 được thông qua. Luật này yêu cầu mọi công dân nam Nhật Bản có khả năng, bất kể thuộc tầng lớp nào, phải tham gia nghĩa vụ quân sự trong thời gian bắt buộc là ba năm với dự bị đầu tiên và hai năm nữa với dự bị thứ hai. [8] Luật hoành tráng này, biểu thị sự khởi đầu về sự kết thúc cho tầng lớp samurai, ban đầu đã gặp phải sự kháng cự từ cả nông dân và chiến binh. Tầng lớp nông dân giải thích thuật ngữ nghĩa vụ quân sự bắt buộc này là ketsu-eki (thuế máu) theo nghĩa đen và cố gắng tránh nghĩa vụ bằng bất kỳ phương tiện cần thiết nào. Các phương pháp tránh né bao gồm tự làm tàn tật, tự xẻo và nổi dậy cục bộ. [11] Các samurai thường phẫn nộ với quân đội mới theo kiểu phương Tây và lúc đầu còn từ chối lập đội hình với tầng lớp nông dân. [8]

Kết hợp với Luật nghĩa vụ quân sự mới, chính phủ Nhật Bản bắt đầu lấy hình mẫu lục quân theo hình mẫu quân đội Pháp. Thật vậy, quân đội mới của Nhật Bản đã sử dụng cấu trúc cấp bậc tương tự như Pháp. [12] Các cấp bậc quân đoàn lính trơn là: chiến sỹ, hạ sĩ quan và sĩ quan. Các cấp bậc chiến sĩ là: jōtō-hei hay thượng đẳng binh, ittō-sotsu hay nhất đẳng binh, và nitō-sotsu hay nhị đẳng binh. Các cấp bậc hạ sĩ quan là: gochō hay hạ sĩ, gunō hay trung sĩ, sōchō hay thượng sĩ, và tokumu-sōchō hay thượng sĩ tham mưu. Cuối cùng, cấp sĩ quan được tạo thành từ: shōi hay thiếu úy, chūi hay trung úy, tai hay đại úy, shōsa hay thiếu tá, chūsa hay trung tá, taisa đại đại tá, shōshō hay thiếu tướng, chūjō hay trung tướng và gensui hay nguyên soái. [8] Chính phủ Pháp cũng đóng góp rất lớn vào việc đào tạo sĩ quan Nhật Bản. Nhiều người đã được tuyển dụng tại học viện quân sự ở Kyoto, và nhiều người khác vẫn đang sốt sắng dịch các hướng dẫn sử dụng tiếng Pháp để sử dụng trong hàng ngũ Nhật Bản. [8]

Bất chấp Luật nghĩa vụ quân sự năm 1873, và tất cả các cải cách và tiến bộ, quân đội mới của Nhật Bản vẫn chưa được kiểm chứng. Tất cả đã thay đổi vào năm 1877, khi Saigō Takamori lãnh đạo cuộc nổi loạn cuối cùng của samurai ở Kyūshū. Vào tháng 2 năm 1877, Saigō rời Kagoshima cùng một đội quân nhỏ trên hành trình đến Tokyo. Lâu đài Kumamoto là nơi diễn ra trận đánh lớn đầu tiên khi các lực lượng đồn trú bắn vào quân đội của Saigō khi họ cố gắng tiến vào lâu đài. Thay vì bỏ kẻ thù lại phía sau, Saigō đã bao vây lâu đài. Hai ngày sau, phiến quân của Saigō, trong khi cố gắng chặn đường đèo, đã gặp phải các toán quân hiện đại của quân đội quốc gia trên đường đến củng cố lâu đài Kumamoto. Sau một trận chiến ngắn, cả hai bên đã rút lui để củng cố lại lực lượng. Vài tuần sau, quân đội quốc gia đã giao chiến với phiến quân của Saigō trong một cuộc tấn công trực diện mà ngày nay được gọi là Trận chiến Tabaruzuka. Trong trận chiến kéo dài tám ngày này, quân đội mạnh gần mười nghìn người của Saigō đã chiến đấu tay đôi với quân đội quốc gia tương xứng. Cả hai bên phải chịu gần bốn ngàn thương vong trong cuộc chiến này. Tuy nhiên, nhờ nghĩa vụ quân sự, quân đội Nhật Bản đã khôi phục lại lực lượng của mình, trong khi Saigō thì không. Sau đó, các lực lượng trung thành với Thiên hoàng đã phá vỡ các chiến tuyến của phiến quân và chấm dứt cuộc bao vây Lâu đài Kumamoto sau năm mươi bốn ngày. Quân đội của Saigō chạy trốn về phía bắc và bị quân đội quốc gia truy đuổi. Quân đội quốc gia bắt kịp Saigō tại Mt. Enodake. Quân đội của Saigō phải chiến đấu trong thế bảy chọi một, khiến nhiều samurai phải đầu hàng. Năm trăm samurai trung thành với Saigō đã trốn thoát, đi về phía nam đến Kagoshima. Cuộc nổi dậy kết thúc vào ngày 24 tháng 9 năm 1877, sau cuộc giao chiến cuối cùng với các lực lượng Hoàng gia dẫn đến cái chết của bốn mươi samurai cuối cùng, kể cả Saigō, người bị một vết đạn chí tử ở bụng, đã được người tùy tùng của mình chặt đầu danh dự. Chiến thắng của quân đội quốc gia đã xác nhận tiến trình hiện đại hóa của quân đội Nhật Bản cũng như chấm dứt kỷ nguyên của samurai.